Biểu hiện của bệnh
Bệnh quai bị do một loại virut thuộc họ Paramyxovirus gây nên. Nguồn lây bệnh quai bị là người đang mắc bệnh quai bị lây cho người lành chưa có kháng thể chống virut quai bị.
Thời kỳ ủ bệnh kéo dài vài ba tuần lễ, sau đó xuất hiện sốt cao đột ngột, có thể thân nhiệt lên tới 38 - 39oC kèm theo đau đầu, mệt mỏi toàn thân, chán ăn, ngủ kém. Sau khi sốt cao kéo dài từ 1 - 3 ngày thì tuyến nước bọt bị sưng to. Đầu tiên là sưng một bên, sau vài ngày tiếp tục sưng tuyến nước bọt còn lại, thường sưng 2 bên không đối xứng (một bên sưng to, một bên có thể nhỏ hơn). Một số trường hợp do tuyến nước bọt sưng rất to làm cho cằm, cổ bạnh ra gây biến dạng cả bộ mặt, khó nhai, khó nuốt. Da ở vùng tuyến nước bọt sưng, căng, bóng, không đỏ, nhưng khi sờ vào vùng da đó thấy nóng và bệnh nhân kêu đau.
Đặc điểm nổi bật của viêm tuyến nước bọt trong bệnh quai bị là không hóa mủ.
Có 3 vị trí đau điển hình của bệnh quai bị trong dấu hiệu viêm tuyến nước bọt là góc thái dương - hàm, điểm mỏm xương chũm và góc xương hàm dưới. Sốt thường kéo dài trong vòng 10 ngày, sau khi hết sốt, sưng tuyến nước bọt cũng giảm dần. Đặc điểm nổi bật của viêm tuyến nước bọt của bệnh quai bị là không bị hóa mủ (trừ khi có bội nhiễm thêm vi khuẩn khác).
Ngoài viêm tuyến nước bọt, virut còn gây tổn thương cho một số bộ phận khác của cơ thể như viêm tinh hoàn (nam giới), viêm buồng trứng (nữ giới). Viêm tinh hoàn do virut quai bị hay gặp nhất ở lứa tuổi đang dậy thì và lứa tuổi trưởng thành (thanh thiếu niên). Sau khi viêm tuyến nước bọt từ 5 - 7 ngày thì xuất hiện biến chứng viêm tinh hoàn. Tỷ lệ bị viêm tinh hoàn từ 10 - 30%. Đặc điểm nổi bật của viêm tinh hoàn là thường xảy ra một bên, tỷ lệ viêm tinh hoàn 2 bên gặp ít hơn. Khi bị viêm tinh hoàn, xuất hiện sốt trở lại, đôi khi thân nhiệt còn tăng hơn lúc ban đầu của viêm tuyến nước bọt. Tinh hoàn sưng to, đau. Khi sờ vào tinh hoàn thấy mật độ chắc và nhìn thấy da bìu bị phù nề rõ rệt, căng, bóng, đỏ. Ngoài ra, có thể xuất hiện viêm mào tinh hoàn, viêm thừng tinh hoàn, thậm chí xuất hiện tràn dịch màng tinh hoàn trong những trường hợp bệnh nặng. Viêm tinh hoàn kéo dài từ 3 - 5 ngày sẽ hết sốt. Tinh hoàn cũng giảm dần độ sưng nề và giảm đau cho đến 3 - 4 tuần lễ sau đó mới hết sưng và hết đau hẳn.
Có thể biến chứng nguy hiểm
Đáng lo ngại nhất của viêm tinh hoàn là biến chứng teo tinh hoàn (phải theo dõi một thời gian dài khoảng vài tháng mới có thể biết chắc chắn), tuy vậy, tỷ lệ teo tinh hoàn do virut quai bị rất thấp (0,5%). Nếu teo tinh hoàn một bên, chức năng của tinh hoàn còn lại vẫn hoạt động bình thường, nhưng khi đã bị teo cả 2 bên sẽ có ảnh hưởng lớn đến hoạt động tình dục và sinh sản (vô sinh). Ngoài biến chứng viêm tinh hoàn ở nam giới, ở nữ giới khi bị quai bị cũng có thể bị biến chứng viêm buồng trứng tuy rằng chỉ chiếm tỷ lệ thấp.
Biến chứng viêm tụy cấp tính, viêm não, viêm màng não, viêm cơ tim, giảm bạch cầu cũng có thể gặp do biến chứng của bệnh quai bị nhưng không nhiều. Mặc dù những biến chứng này của bệnh quai bị gặp với tỷ lệ thấp nhưng rất nguy hiểm, có thể đe dọa đến tính mạng của người bệnh cho nên cần hết sức cảnh giác
Tiêm phòng quai bị cho trẻ. Ảnh: Trần Minh
Khi bị bệnh quai bị nên làm gì?
Khi nghi là bị bệnh quai bị, nên đi khám bác sĩ để được chẩn đoán chính xác bởi vì viêm tuyến nước bọt không chỉ do virut quai bị mà còn nhiều loại virut hoặc vi khuẩn khác. Đối với thể bệnh viêm tuyến nước bọt không phải do virut quai bị, cần vệ sinh họng, miệng, đánh răng sau khi ăn, trước và sau khi ngủ dậy. Có thể súc họng, miệng bằng các dung dịch nước muối sinh lý và một số dung dịch sát khuẩn khác. Dùng thuốc hạ nhiệt, giảm đau. Ngoài ra, người bệnh cần uống nhiều nước vì sốt làm mất nước, mất chất điện giải, tốt nhất là uống dung dịch oresol. Cần nghỉ ngơi tại giường, tránh tiếp xúc với những người có nguy cơ cao mắc bệnh quai bị (lứa tuổi thanh thiếu niên) tối thiểu 10 ngày. Đối với thể bệnh có viêm tinh hoàn, cần nghỉ ngơi tại giường khi tinh hoàn vẫn còn sưng, đau. Cần thiết mặc quần lót để treo nhẹ tinh hoàn lên. Đối với nam giới có viêm tinh hoàn hoặc nữ giới bị viêm buồng trứng thì rất cần có ý kiến tư vấn của bác sĩ khám bệnh. Khi nghi ngờ có biến chứng, cần vào viện để được theo dõi chặt chẽ.
Cần cách ly người bệnh với người lành. Người bệnh và người chăm sóc bệnh nhân cần đeo khẩu trang y tế đúng tiêu chuẩn để hạn chế đến mức tối đa virut lây sang người chăm sóc, từ đó chúng lây cho người lành khác. Đối với đối tượng có nguy cơ cao (thanh, thiếu niên, người chưa có miễn dịch chống virut quai bị), cần tiêm vaccin phòng bệnh. Đây là biện pháp hữu hiệu nhất hiện nay để tạo cho cơ thể có đủ kháng thể đặc hiệu chống lại virut quai bị.
BS. Bùi Anh Theo SK & ĐS
|