Cây bồ công anh còn gọi là hoàng hoa địa đinh, hoàng hoa lan thảo, nha sư (dent de lion)…, tên khoa học:Taraxacum offcinal(L.) Weber, thuộc họ Cúc (Asteraceae).
Mô tả cây
Cây thảo sống dai nhờ rễ phụ hình trụ phù to, dài, khỏe, có nhũ dịch trắng. Lá mọc chụm ở đất, không lông, thuôn dài hình trái xoan ngược, chẻ thành thùy nhọn. Cụm hoa hình rổ trên cuống dài 10 - 30cm, chỉ gồm có những hoa hình lưỡi màu vàng, hàng lá bắc ngoài cong xuống. Quả bế có 10 cạnh, có một mỏ dài mang mào lông màu trắng. Cây ra hoa từ tháng 2 - 3 đến tháng 10.
Bồ công anh là cây của những vùng ẩm và lạnh của Bắc và Nam bán cầu. Ở Việt Nam, cây mọc hoang dọc theo đường đi, sân vườn, bãi đất hoang, nơi đất ẩm, dựa bờ nước…, ở những vùng núi cao như Đà Lạt, Tam Đảo, Sa Pa.
Người ta thường dùng lá non để làm rau ăn tươi như: rau xà lách, chung với nhiều loại rau mùi khác, hoặc luộc chín, nấu canh hoặc chế biến thành món súp chung với các loại rau khác. Khi dùng, nên dùng tay xé nhỏ lá, tốt hơn là dùng dao cắt, để giữ được mùi thơm của lá.
Lá khô được bào chế thành trà, hoặc làm nguyên liệu cho các loại thức uống khác.
Vào giữa tháng 4 đến tháng 5, người ta thu hái toàn cây, lúc cây chưa có hoa hoặc bắt đầu ra hoa, loại có nhiều lá, thân và cành màu tím, rễ còn nguyên, là tốt nhất. Rửa thật sạch, loại bỏ các lá xấu, lá già, vàng úa, đem phơi khô trong râm và bảo quản nơi khô ráo để dùng làm thuốc.
Dược điển Việt Nam quy định: lá bồ công anh khô có độ ẩm không quá 12%, tro toàn phần không quá 9%, ngọn có hoa không quá 10%, tạp chất hữu cơ (lá cây khác) không quá 1%, tỉ lệ ngọn mang lá và hoa dài quá 20cm, không quá 10%.
Trong cây có chứa chlorophylle, chất đắng taraxacin và một chất kết tinh taraxacerin, inulin, levulose, mannitol, cholin, saponin, một chất nhựa dầu (1,8%) từ đó tách được các alcool: taraxasterol, homotaraxasterol, cluytianol, các sterol, tinh dầu, caroten, axít folic, axít béo (gồm axít melissic và p. hydroxyphenacetic), các vitamin A, B, C, các chất khoáng Ca, Fe, P, K, Mg, Na, Si, Mn, S…
Phần lá và hoa chứa các thành phần: nước 88,8g%, protein 0,6g%, carbonhydrat toàn phần 3,7g%, chất sợi 0,44g%, phần chiết được bằng ether 1,6g%, tro 2,3g%, các chất khoáng: phosphor 59,lmg%, sắt 3,3mg%, calcium 473,5mg%, vitamin A 6.700 đơn vị quốc tế/100g, vitamin C 73mg%.
Trong lá còn có vitamin B1 0,19mg%, vitamin B2 0,14mg%, vitamin B6 0,8mg%.
Trong hoa còn có các chất lecithin, violaxanthin, xanthophyl, taraxanthin.
Hạt có chứa alcaloid.
Thường được dùng chữa áp-xe vú, ít sữa, tiểu tiện khó, nhiễm trùng đường tiết niệu, đau dạ dày, ăn uống không tiêu, mụn nhọt, sưng tấy, lở ngứa ngoài da. Thường phối hợp với các vị thuốc khác.
Ngày dùng 20 - 30g cây tươi, rửa thật sạch, ép lấy nước uống, hoặc 12 - 30g cây khô, hãm nước sôi hoặc sắc uống.
Dùng ngoài, đắp trị ung nhọt, mụn cóc, rắn cắn.
Lưu ý: các trường hợp âm hư nội nhiệt, hoặc bị tràng nhạc, ung nhọt đã vỡ mủ, khi dùng bồ công anh nên thận trọng.
Một số bài thuốc có dùng bồ công anh
Chữa sưng vú, tắc tia sữa:
Dùng 60g lá bồ công anh tươi, rửa thật sạch, thêm ít muối, giã nát, vắt lấy nước uống, còn bã dùng đắp lên nơi vú sưng đau. Có thể nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống trong ngày.
Hoặc dùng bài thuốc:
Bồ công anh, kim ngân hoa, hai thứ lượng bằng nhau 100 - 200g. Nấu với 1 lít nước, sắc còn 300ml, chế vào 50ml rượu trắng, chia 3 lần uống trong ngày, trước bữa ăn.
Chữa ăn uống kém tiêu, hay bị mụn nhọt:
Lá bồ công anh khô 10 - 20g. Nấu với 600ml nước, sắc còn 200 ml, chia 2 lần uống trong ngày, trước bửa ăn. Nên uống liên tục trong vòng 3 - 5 ngày, có thể kéo dài hơn.
Chữa viêm kết mạc cấp tính, mắt đỏ, sưng đau:
Bồ công anh tươi 30 - 40g, trái dành dành (chi tử) 7 - 10 trái. Nấu với 750ml nước, sắc còn 300ml, chia 2 lần uống sau bửa ăn.
Chữa đau răng, sưng chân lợi răng:
Lá bồ công anh 100g, muối 20g. Hai thứ ngâm qua một đêm, lấy vải màn xô sạch bọc lại, vắt lấy nước cốt, cho vào lọ sạch, nút kín. Dùng ngậm hàng. Ngậm liên tục trong 7 ngày sẽ hết đau nhức răng và giúp làm chặt chân răng.
Lưu ý:
Cần phân biệt cây bồ công anh Taraxacum offcinal (L.) Weber với một số cây khác cũng có tên là bồ công anh như sau:
Bồ công anh hoa tím (tử hoa địa đinh), còn gọi là cải ô rô, diếp xoắn, chicory, wild endive (Anh), chicorée (Pháp), có tên khoa học Cichorium intybus L., thuộc họ Cúc.
Bồ công anh nam, còn gọi là bồ công anh mũi mác, diếp hoang, diếp trời, rau bồ cóc, rau chuôi, rau bao, có tên khoa học Lactuca andica L., thuộc họ Cúc.
Ở phương Tây (Pháp), người ta dùng bồ công anh để làm thuốc lọc máu, tẩy độc cho cơ thể và làm gia tăng sức đề kháng, chữa sung huyết gan, viêm gan vàng da, viêm ống dẫn mật mạn tính, sỏi mật và thận, tăng chlesterol trong máu, xơ vữa động mạch, béo phì, thiếu máu, suy nhược, rối loạn tiêu hóa, hoại huyết, giảm niệu, suy thận, thấp khớp, thống phong, táo bón, trĩ, bệnh ngoài da do gan, nấm, eczema...
Lương y ĐINH CÔNG BẢY - Theo SK & ĐS
|